Nang rốn ở trẻ sơ sinh là bệnh gì?
Bình thường ống niệu rốn từ xoang niệu sinh dục và rốn được đóng kín và xơ hóa thành dây chằng rốn - bàng quang trong thời kỳ bào thai. Sự tồn tại của niệu rốn sẽ gây ra một số bệnh lý như trong tồn tại ống phúc tinh mạc ở trẻ nhỏ.
Đối với thực tế lâm sàng có thể gặp các bệnh lý xuất phát từ ống niệu rốn sau:
Dò rốn bàng quang bán phần hoặc toàn phần.
Nang rốn bàng quang.
Túi thừa bàng quang.
Dò rốn bàng quang
Bệnh lý này xảy ra khi có sự tồn tại nguyên vẹn ống niệu rốn hay chỉ thông thương bán phần ống niệu rốn. Nó có đặc điểm sau:
Thất rốn có chảy nước tiểu. Dùng tay ấn nhẹ phần hạ vị thấy nước tiểu ra nhiều ở rốn, khi trẻ ho hoặc khóc dịch dò ra nhiều hơn.
Khi bơm dung dịch xanh Methylen vào phần bàng quang sẽ thấy dịch ở rốn màu xanh hay bơm dung dịch xanh này qua catheter vào lỗ dò ở rốn sẽ thấy hiện tượng nước tiểu của bệnh nhi màu xanh.Chụp phần đường dò cản quang qua bơm thuộc bằng catheter vào lỗ dò rốn thì thấy thuốc vào bàng quang, và ngược lại nếu như chụp bàng quang ngược dòng dưới áp lực sẽ thấy thuốc cản quang trào lên và ra ở lỗ dò rốn.
Khi xét nghiệm dịch dò ở vùng rốn sẽ cho kết quả bản chất dịch là nước tiểu.
Kiểm tra phần niệu đạo sau, cổ bàng quang hay bao quy đầu thường thấy nguyên nhân cản trở đường thoát của niệu đạo.
Tổn thương ống niệu rốn đã xảy ra nguy cơ thoái triển thành ác tính nếu như để kéo dài không điều trị hay đến tuổi trưởng thành. Nên sử dụng biện pháp phẫu thuật cắt bỏ khi đã có chẩn đoán và đồng thời phải điều trị những nguyên nhân gây cản trở đường thoát của niệu đạo.
Nang rốn ở trẻ sơ sinh
Nang rốn ở trẻ sơ sinh có các triệu chứng không rõ ràng.
Nguyên nhân nang rốn ở trẻ sơ sinh là do ống niệu rốn đã bị bịt cả hai đầu nên ứ đọng dịch ở đoạn giữa còn lại tạo thành nang.
Khám bệnh nang rốn ở trẻ sơ sinh bằng cách sờ nắn bụng có thể sờ được phần u dạng nang, thể chất mềm và căng nằm ở ngay bên dưới rốn. Tuy nhiên qua thăm khám lâm sàng đơn thuần thì cũng không thể phân biệt được giữa nang rốn màng quang với nang ruột dưới rốn.
Túi thừa bàng quang
Khi phần ống niệu rốn bị bít ở phần rốn mà thông ở phía bàng quang thì sẽ tạo thành bệnh lý túi thừa bàng quang. Phần lớn bệnh nhi sẽ không có các triệu chứng lần sàng rõ ràng, một số ít có thể có những biến chứng nhiễm trùng đường tiểu do ứ đọng.
Chẩn đoán bệnh bằng siêu âm, nội soi cũng như chụp bàng quang ngược dòng hay xét nghiệm. Không những chẩn đoán được bệnh mà nó còn thể hiện thêm các dị tật đường tiết niệu khác.
Xét nghiệm UIV và thận đồ chỉ nên thực hiện khi kết hợp bệnh tiết niệu khác khi có nghi vấn về chức năng thận. Điều trị cắt bỏ túi thừa bàng quang cũng đơn giản như của ống niệu rốn.
Việc này giúp ngăn ngừa sự thoái triển ác tính của túi thừa có thể gặp về sau này. Khi điều trị cần phối hợp với việc điều trị đồng thời các nguyên nhân gây cản trở đường thoát của niệu đạo.